Bản lĩnh người đứng đầu
Nhà
báo Nguyễn Sinh kể rằng sức thuyết phục lớn nhất của ông Thoan chính là
ý thức về người đứng đầu. Một lần cùng đi công tác với ông Thoan ra
đường 22 - đoạn đường tránh vùng đèo Ngang - thì gặp đoạn đường vừa bị
máy bay ném bom gây tắc.
Bí thư Nguyễn Tư Thoan (thứ hai từ phải sang) đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại sân bay Đồng Hới - Ảnh tư liệu |
Ngay
lập tức ông Thoan nhảy xuống xe, cầm xẻng xúc bẩy đất đá lấy lối cho xe
qua. Thấy bí thư tỉnh ủy làm thế, mọi người trên các xe khác đều nhào
xuống cùng lao vào dọn dẹp, chỉ một lúc thì thông xe.
Thắp đèn để... không sợ máy bay!
Gần
như ở bất cứ điểm nóng nào của chiến trường Quảng Bình ông đều có mặt,
hình ảnh ông bí thư tỉnh ủy có mặt giữa nơi bom rơi đạn nổ có sức động
viên và thuyết phục hơn ngàn vạn lời nói. Câu chuyện ông Thoan về xã CD
vẫn được nhắc lại như một điển hình.
Xã
CD nằm bên cầu Roòn bắc qua sông Roòn, trên quốc lộ 1A - là tuyến đường
độc đạo từ Bắc vào Nam. Thời đó máy bay Mỹ đánh phá khốc liệt suốt ngày
đêm hòng cắt đứt tuyến đường vận chuyển hàng hóa và huyết mạch đi lại
từ Hà Nội vào Vĩnh Linh. Làng xóm bị bom từ máy bay và pháo các cỡ từ
hạm đội 7 của Mỹ bắn phá tan nát cả. Phong trào ở địa phương này có lúc
đã chùng xuống. Khi nghe được tin này ông Thoan rất lo lắng. Giữa bom
đạn tơi bời như vậy nhưng ông lập tức vượt gần 60 cây số từ Đồng Hới ra
xã và triệu tập một cuộc họp Đảng vào ban đêm, ngay giữa đình làng.
Ông
yêu cầu tất cả đảng viên khi đến họp mỗi người phải mang theo một cây
đèn (thời đó chủ yếu là đèn dầu hỏa - PV). Khi mọi người tới, ông bảo
tất cả thắp đèn lên cho sáng. Ai nghe thế cũng hoảng, sợ máy bay Mỹ thấy
ánh sáng lại đánh phá vào làng.
Ông
Thoan nói lớn: “Nếu máy bay có thấy đèn mà ném bom thì chết ta cùng
chết với nhau, sống ta cùng sống với nhau không phải lo sợ chi hết! CD
là làng chống Pháp nổi tiếng, nếu CD vì sợ ác liệt mà chạy lui thì cả
tỉnh này cũng chạy, vậy biết trông cậy vào ai mà đánh giặc?”.
Khi
các đảng viên đã yên vị (dù nhiều người vẫn hơi run vì phải để đèn
sáng), sau khi thông báo tình hình, nhiệm vụ, ông Thoan kết luận: “Máy
bay ở trên trời, còn mình ở dưới đất, cứ đào hào cho sâu, làm cột kèo
chống hầm cho chắc mà ẩn nấp để đánh lại nó, nó không thể nhòm ngó mình
cả ngày cả đêm được. Tỉnh ủy yêu cầu tất cả đảng viên phải ở lại làng
chiến đấu, giữ đất của mình”.
“Các đồng chí đã run mà tui cũng run thì mần răng?”
Ông
Phan Văn Khuyến còn kể cho chúng tôi một câu chuyện thú vị khác về sự
dũng cảm quyết đoán của ông Thoan, đấy là trong một chuyến đi công tác
ban đêm qua sông Gianh. Khi đoàn vừa tới bến phà Gianh thì máy bay Mỹ
bắn pháo sáng rực cả một khúc sông rộng lớn. Mọi người trong đoàn thấy
vậy ai cũng hoảng sợ.
Ông
Thoan đi xuống mép sông, bước lên một con đò nhỏ, tự tay cầm chèo rồi
hô mọi người xuống để qua sông. Dù sợ, nhưng mọi người thấy đích thân bí
thư tỉnh ủy cầm chèo đưa mình đi thì ai cũng ngại nên líu ríu lên đò.
Ra giữa sông Gianh, trong ánh sáng ma quái của pháo sáng, chiếc đò chỉ
như một chiếc lá tre mong manh giữa bốn bề nước chảy. Chỉ cần một trái
bom tạ nổ cách cả trăm mét cũng đủ nhận chìm đò chứ nói gì đến chuyện
chèo mà chạy kịp để trốn máy bay.
Đò
ra đến giữa sông, đoạn mà nỗi lo lắng của mọi người dâng lên cao nhất,
ông Thoan tay vẫn chèo nhịp nhàng, miệng thì hò dô, hò dô để giữ an lòng
cho mọi người. Vậy là đoàn qua sông được trót lọt và an toàn. Sau mỗi
lần có một hoàn cảnh như vậy xảy ra, bao giờ ông Thoan cũng tìm cách để
nói chuyện với mọi người như rút ra một bài học. Vượt qua sông Gianh,
ông nói với mọi người: “Tôi cũng sợ chết như các đồng chí, tôi cũng có
vợ có con, thân thể tôi cũng là thịt xương chớ phải mình đồng da sắt gì
đâu mà không sợ bom đạn. Chỉ khác các đồng chí ở chỗ tôi là bí thư nên
tôi phải hết sợ hết run để các anh nhìn vào mà hết sợ hết run. Chứ các
đồng chí đã run mà tôi cũng run thì mần răng được nữa?”.
Quyết định viết trên... “xắc cốt”
Đã
tròn 45 năm trôi qua rồi nhưng ông Hoàng Hữu Thanh, nguyên bí thư đảng
ủy Trường Sư phạm cấp I Quảng Bình, vẫn nhớ tới cái quyết định liên quan
đến sinh mệnh hàng trăm thầy trò của nhà trường vào năm 1967 do chính
bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan ký. Giai đoạn đó chiến tranh đang cao
trào ác liệt, hai trường sư phạm cấp I và cấp II của tỉnh được thông báo
phải sơ tán từ Quảng Bình ra huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh).
Kế
hoạch do trưởng ty công an - chủ nhiệm phòng không của tỉnh ký, hàng
trăm giáo viên và giáo sinh của hai trường sẽ rời Quảng Bình và cố gắng
vượt ngã ba Đồng Lộc vào ngày lễ Giáng sinh (25-12) để tranh thủ lúc máy
bay ngừng bắn. Mỗi trường đều có một đội tự vệ đi sau, chở theo 40
chiếc quan tài cùng vải liệm để đề phòng tình huống xấu nhất xảy ra.
Lệnh vừa phát ra, cán bộ giáo viên đều hớt hải bán tống bán tháo tất cả
đồ đạc, heo gà tăng gia được để ra vùng sơ tán, nhiều giáo sinh không về
kịp với gia đình khóc như mưa. Không khí nhà trường như có đám tang.
Trước
tình hình đó, ông Thanh, với tư cách bí thư đảng ủy nhà trường, đã
triệu tập họp thường vụ và ông phân tích: “Trường sư phạm đóng ở làng
Cây Lim, là vùng núi, xa trọng điểm đánh phá của máy bay địch, không
phải nơi tử địa. Nếu giáo sinh học xong, ra trường về đi dạy cũng phải
dạy trong hoàn cảnh bom rơi đạn nổ, nên để giáo sinh tôi luyện trong
chiến tranh để sau này đi dạy cũng biết cách mà hướng dẫn học sinh trú
ẩn khi máy bay đánh phá. Học sinh Quảng Bình chịu được, nhân dân Quảng
Bình chịu được, sao giáo sinh trường sư phạm lại phải rời đi?”.
Những
phân tích của ông Thanh được mọi người tán đồng, tuy nhiên khi ông đến
gặp thường vụ tỉnh ủy để xin cho trường ở lại thì tất cả đều nói không
thể làm trái quyết định, trường muốn ở lại phải xin ý kiến của ông
Nguyễn Tư Thoan. Ông Thanh biết ông Thoan đang công tác ở Lệ Thủy, tìm
vào gặp thì ông Thoan đã ra Quảng Trạch, quay ra Quảng Trạch thì ông
Thoan vừa đi Minh Hóa.
Ông
Thanh vẫn kiên trì đón cho được ông Thoan, sau khi nghe ông Thanh trình
bày, ông Thoan nói với ông Thanh: “Tại sao ban cán sự Đảng, Đoàn không
thấy vấn đề này hè? Thôi anh đưa quyết định đây!”. Nói xong ông kê tờ
quyết định lên “xắc cốt” (một loại túi xách dành cho cán bộ thời đó -
PV) viết: “Để có thực tiễn trong chiến tranh, giáo viên được hoàn chỉnh
tại nơi đào tạo, thường vụ tỉnh ủy quyết định hai trường sư phạm không
sơ tán ra Đông Triều nữa - Ngày 15-12-1967 - Bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư
Thoan”.
Ông
Hoàng Hữu Thanh nhớ như in câu chuyện này bởi với cái quyết định viết
trên “xắc cốt” ấy, khi ông về lại trường thông báo tin này, vì quá vui
sướng có anh giáo viên trẻ đã nhấc bổng ông rồi vác lên vai chạy vòng
quanh sân trường. Thầy và trò của cả hai trường sư phạm đã được ở lại
bám trụ cùng quê hương, được tôi luyện qua thử thách, cơ sở của trường ở
Cây Lim vẫn an toàn.
Tôi
cảm nhận ở anh Thoan là một cán bộ chủ chốt của tỉnh có bản lĩnh vững
vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, tác phong sâu sát, xông pha, dũng
cảm, nhạy bén, chủ động cùng thường vụ tỉnh ủy kịp thời giải quyết trước
những tình huống phức tạp, khó khăn.
Tháng
8-1954, sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, trong 10 năm hòa
bình xây dựng (8-1954 đến 1964) anh Thoan với cương vị chủ tịch UBND
tỉnh, bí thư tỉnh ủy đã cùng tập thể ban chấp hành đem hết tâm sức khắc
phục hậu quả chiến tranh, phục hồi phát triển kinh tế - xã hội.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, anh Thoan là một cán bộ chủ chốt
dũng cảm, xông pha, sâu sát cơ sở, những lúc khó khăn, những nơi nguy
hiểm anh kịp thời đến tận nơi trao đổi, giúp đỡ, đúc rút kinh nghiệm chỉ
đạo.
TRẦN SỰ (nguyên chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình)
|
LÊ ĐỨC DỤC - LAM GIANG
___________
Không
chỉ là một vị chỉ huy bản lĩnh, trong ký ức nhiều người khi nhớ về ông
còn in đậm hình ảnh của một vị bí thư rất mực giản dị và tình cảm.
Kỳ tới: “Muôn người như một gửi về Trị Thiên...”
- Trong các hành động của ông ở làng Cảnh Dương (TT ko hiểu tại sao tác giả lại dấu tên thật) và bên bờ Sông Danh TT thấy có khía cạnh mạo hiểm trong ..Trả lời nhận xét này
- Ngay lập tức ông Thoan nhảy xuống xe, cầm xẻng xúc bẩy đất đá lấy lối cho xe qua. Thấy bí thư tỉnh ủy làm thế, mọi người trên các xe khác đều nhào..Trả lời nhận xét này