13/11/10

Hoài nhớ - phần 4

NĂM ANH EM MANG NĂM CÁI TÊN 


Theo thứ tự từ trên xuống dưới :

1/ NGUYỄN DOÃN DŨNG sinh năm 1947 (Đinh Hợi)
2/ NGUYỄN THỊ DOÃN CUNG sinh năm 1948 (Mậu Tý)
3/ NGUYỄN DOÃN MẠNH sinh năm 1952 (Nhâm Thìn)
4/ NGUYỄN DOÃN CƯỜNG Sinh năm 1956 (Bính Thân)
5/ NGUYỄN DOÃN BẢO sinh năm 1960 (Canh tý)

Anh Dũng sinh năm 1947 , thời đó không riêng gì vùng quê tôi mà hầu như trên đất nước Việt Nam còn gặp vô vàn khó khăn , thách thức . Cách mạng Tháng 8 thành công mới một năm rưỡi thì thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm nước ta nói chung và chiếm lại Đồng Hới nói riêng. Cuối 1946 Bác Hồ kêu gọi toàn quốc kháng chiến , chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đồng Hới thực hiện chính sách vườn không nhà trống . Phụ nữ , trẻ em , người già phải di chuyển ra khỏi thị xã , tản cư lên các vùng sâu vùng xa . Ngày đó , mẹ tôi bồng con tản cư lên tận làng Xuân Dục (tức Xuân Ninh bây giờ) ở trên đó một thời gian chờ thị xã yên ổn mới trở về. Đồng Hới bị tạm chiếm , trở thành nơi đóng quân của các đơn vị quân Pháp.

Lớn lên và đi học , những ngày hòa bình ngắn ngủi ở Đồng Hới anh tham gia phong trào thanh niên của thị xã , như thanh niên ba sẵn sàng, tham gia xây dựng đường dây điện thắp sáng cho thị xã (trồng cột điện, kéo dây) và phong trào thể dục thể thao . Cùng lứa tuổi với anh ở xóm Câu và thị xã có những anh chị như; anh Nhỏ, anh Đệ, anh Diệu, anh Chái , anh Hà , anh Sơn ( Giặc ),anh Thuận rồi chị Hương , chị Viên v…v nhỏ hơn thì có Sáo , Hải , Dỉnh , Hùng …..Đặc biệt tại ngôi nhà số 12 đường Bờ sông , thuộc khu Nam , Xóm Câu cũng có một cô gái , tên là Bê ( Hoàng Thị Thu Bê) , cùng tuổi với anh. Con gái thì siêng năng học hành , lo phụ giúp gia đình. Đám con trai , ngoài việc học hành còn lại tụ tập đá bóng và nhiều người đá cũng rất điệu nghệ nhưng rất tiếc khi phong độ và tuổi tác đã đến độ chín muồi thì chiến tranh phá hoại Miền Bắc xảy ra. Mỗi người mỗi ngã, người đi làm , người tiếp tục được đi học, người vào bộ đội , vào công an hoặc đi thanh niên xung phong .

Tháng 2 năm 1965 , cùng một số thanh niên thị xã Anh lên đường nhập ngũ, tham gia quân đội ( cùng đợt có anh Trần Lộc ) nhưng không là B dài B ngắn gì cả mà ăn cơm bắc đánh giặc nam vì những năm đó Mỹ mới đưa quân ồ ạt vào Miền Nam , tiến hành chiến tranh cục bộ. Bên kia vĩ tuyến 17 thuộc các huyện giáp ranh Bắc - Nam là vùng chiến sự ác liệt nhất .Đơn vị của Anh là trung đoàn 270 bộ đội chủ lực đóng tại xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh .Nhiệm vụ của trung đoàn là đánh địch ở bên kia giới tuyến bằng bí mật, táo bạo, bất ngờ nhằm phá vỡ phòng tuyến của địch lập ra để ngăn chặn sự chi viện của Miền Bắc cho Miền nam .Căn cứ vào tình hình chiến trường và thời tiết , hàng đêm bộ đội xuất phát từ Vỉnh Linh đánh sang làm tiêu hao sinh lực địch, phá vỡ tuyến phòng thủ của chúng cũng coi như mở đường cho bộ binh và cơ giới của ta vào Nam. Với đặc thù và tính chất cuộc chiến như vậy nên mới gọi là bộ đội ăn cơm Bắc đánh giặc Nam hay bộ đội ngày Bắc đêm Nam. Khi tuyến phòng thủ hiện đại nhất thế giới của Mỹ “ Hàng rào điện tử Mắc- na- ma- ra ‘’ nhằm ngăn chặn Miền Bắc chi viên cho Miền Nam không còn tác dụng nữa thì trung đoàn 270 lại tỏa đi các chiến trường mới, nhận nhiệm vụ mới .

Khoảng năm 1968 Anh được đưa ra Nghệ an chuẩn bị đi học lái xe tăng , nhưng không thành nên chuyển sang học lái xe ô tô quân sự, sau đó chuyển về trung đoàn D30 Cục Hậu Cần đoàn 559. Cái nghiệp lái xe cùng Anh , gắn với Anh suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến ngày toàn thắng và cả sau khi ra quân chuyển qua dân sự vẫn xe ta bon bon trên mọi nẻo đường ,vào Nam ra Bắc.

Trung đoàn D30 thuộc Cục Hậu cần đoàn 559 (Bộ đội Trường Sơn) làm nhiệm vụ trên suốt chiều dài đất nước từ Lạng Sơn vào tận Cà Mau. Hễ chiến trường kéo dài đến đâu là hậu cần có mặt đến đó trước, để kịp thời cung cấp trang thiết bị khí tài , lương thực , thực phẩm, nhu yếu phẩm, thuốc men thậm chí cả cây kim sợi chỉ cho bộ đội . Mà kẻ địch thì luôn tìm mọi cách đánh phá nguồn cung cấp hậu cần của ta nên trận tuyến của người lính hậu cần vô cùng gian lao , nguy hiểm .Ngày đó lính lái xe lấy đêm làm ngày , ngày nghỉ chặt cây ngụy trang cho xe, đêm đi. Lấy ánh trăng làm đèn, tranh thủ vượt thêm vài trăm cây số. Lợi dụng pháo sáng địch , cố thêm cho kịp đến binh trạm .Không trăng , không pháo sáng thì đèn cốt đèn gầm rọi xuống tim đường cứ thế mà đi thẳng ra chiến trường và “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến’’, “Yêu xe như con , quý xăng như máu” “ Thà hy sinh trên tay lái, còn người là còn xe, còn người là còn hàng ‘’ là khẩu hiệu hành động , là suy nghĩ từ con tim , khối óc của những Tuấn mã trên núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Không thể kể hết những nơi mà trung đoàn D30 đóng quân trên khắp mọi miền của tổ quốc , chỉ nhớ một số nơi như Hà Nội , Ninh Bình , Nghệ An , Vĩnh Linh . Chỉ riêng trên mảnh đất Quảng Bình cũng có đến bốn hay năm địa điểm đơn vị đóng quân Như: Khương Hà , Hiền Ninh , An Ninh…Và trong số hàng trăm “tay lái ”ngày ấy , nay vẫn còn như đâu đó hình ảnh tiểu đoàn trưởng Phan Tương , người Miền Nam tập kết. Rồi các anh , như anh Sỹ , anh Trang , anh Vị , anh Doãn người Nghệ An . anh Phạm văn Đoan Người Thái Bình .Và nhiều , nhiều lắm các anh ở tận Lào Cai , Yên Bái , Bắc Cạn , Vĩnh Phúc, Lai Châu …..
Mà cũng lạ , đơn vị có đến hàng trăm người người toàn dân từ Nghệ An trở ra , nhưng hầu hết là người Khu 3 chỉ duy nhất một mình anh tôi là người Quảng Bình ,lại được sự chỉ huy của một cán bộ Miền Nam tập kết .Thú vị nhất là từ đoàn D30 này những vần thơ chống Mỹ, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng , tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm của quân đội ta , nhân dân ta được hình thành bởi một người lính , một nhà thơ mà tên tuổi và những vần thơ của Anh vẫn còn sống mãi với thời gian. Nhà thơ Phạm Tiến Duật- Người lính tiểu đoàn D30 – hậu cần – Phạm Tiến Duật . Chính những người con tứ xứ , quen nhau từ thuở lái xe ấy đã kề cận bên nhau ngay trong những giây phút hiểm nguy nhất

Cái vết thương xoàng mà đưa viện,
, Hàng còn nằm đó , tiếng xe reo,
Nằm ngửa nhớ trăng , nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy, nhớ lưng đèo .

Hoặc

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm,
Đường ra trận mùa này đẹp lắm,
Trường Sơn Đông , nhớ Trường Sơn tây .

Mặc dù đơn vị đóng quân ở Quảng Bình nhưng ít khi anh được về thăm nhà , họa hoằn lắm mới tranh thủ ghé nhà một hai tiếng rồi vội vã ra đi , vì ngày đó chiến tranh còn ác liệt lắm .Cũng may , mặc dù chiến tranh nhưng phong trào thể thao trong đơn vị luôn được chú trọng nên thỉnh thoảng anh được cử tham gia đại hội thể thao của đơn vị nhờ năng khiếu đá bóng , bóng chuyền từ nhỏ. Nhờ vậy mà có thời gian thăm nhà , thăm quê nhiều hơn . Chuyện riêng tư , có lẽ cũng từ đó mà….. tới .

Còn nhớ , mùa hè năm 1971 anh lái chiếc Zin –khơ cắm đầy lá ngụy trang và bụi đất đỏ Trường Sơn ghé nhà (lúc đó đang ở Mỹ Cương) xe phải đổ bên đồi Xưởng in . Thời đó được ngồi trên cabin xe nhà binh để thưởng thức hương vị “Xe không kính, không phải là xe không kính , đạn giật bom rung kính vỡ mất rồi ‘’ hoặc “ Cái gạt nước xua đi nổi nhớ Đông Trường Sơn nhớ tây Trường Sơn ‘’ thì sung sướng lắm . Đến tối , tôi gợi ý và anh đồng ý cho lên xe đi một vòng tới mô cũng được . Thế là “ung dung buồng lái ta ngồi, nhìn đất , nhìn trời , nhìn sao , nhìn biển ‘’Quá đã. Xe chạy từ đồi Mỹ Cương, trên đường sắt cũ qua Nam Lý , xuống thị xã (lúc đó là một đống đổ nát ) vòng lên Cộn, ghé thăm nhà chú Trang , chưa đến mười phút.

Có đi nữa không ? Tôi trả lời : Nữa ! Rồi lại lên xe.

Xe chạy xuống khu vực Nghĩa Ninh , rẽ phải vào một cánh đồng rồi dừng lại trên một con dốc nhỏ , cạnh bờ mương thủy lợi. Trăng sáng , gió hây hây tứ phía biển thổi vào và từ trường sơn đổ xuống , quấn quýt vuốt ve đám ruộng xanh non đang thì con gái ,thoang thoảng mùi thơm lúa mới . Quá đã .

Anh dặn tôi ngồi coi xe , khoảng hai mươi phút mà chân phải đạp lên côn, kẻo sợ xe tuột dốc. Rồi anh đi bộ một mình về hướng cửa sau , Ty Công an Quảng Bình . Năm phút , rồi mười phút qua mau , tôi vẫn vui vẻ , chân đạp côn tay ôm vô lăng cái đầu lắc la lắc lư rất khoái chí . Nhưng mười lăm rồi hai mươi phút đầu tiên trôi qua , không thấy anh ra , chân tay đã mỏi, hơi buồn ngủ. Rồi hai mươi phút tiếp theo , lại trôi qua , vẫn không thấy anh ra. Chân tay đã mỏi nhừ , cơn buồn ngủ đã đến , vẫn không thấy anh ra.
Lại thêm hai mươi phút nữa và bực , tức , ân hận ….bắt đầu ùa đến xen lẩn những suy nghỉ vẩn vơ .Cố mở mắt thật to nhìn về hướng Ty Công an thì thấy có bóng người đi ra , nhưng không phải một mà những hai người. Hai người không đi , mà lại đứng ! Đứng dưới bóng trăng . Hay nói chính xác là nấp dưới bóng trăng và cạnh mấy bụi chuối đang nở bông ra trái . Cố nhìn mà cũng chẳng thấy gì và cũng chẳng biết là ai ,vì bị mấy bụi chuối che mất, lại chờ vậy . Cuối cùng (cũng phải mười lăm phút nữa) , hai người đi về hai phía . Một trở vào Ty Công an , một tiến về chỗ thằng tôi đang ngồi coi xe , cho tới khi tôi nhận ra đó là anh tôi với một dáng đi thoải mái và khi đến gần là một nét mặt tươi tắn đầy mãn nguyện …..



Một thời gian sau đó ít lâu, tôi tìm hiểu thì mới biết người thứ hai hôm đó làm tôi phải ôm vô lăng ngồi suốt đêm trên cánh đồng xã Nghĩa Ninh là cô công an người xóm câu, cùng tuổi với anh tôi, được sinh ra và lớn lên tại căn nhà số 12 đường Bờ sông- Xóm Câu, bên dòng Nhật Lệ hiền hòa và xinh đẹp , mà đã đề cập ở phần trước. Và ai cũng hy vọng về một kết thúc có hậu cứ thế lớn dần cho đến ngày “ Trâu ta ăn cỏ đồng ta”

Năm 1974 tranh thủ thời gian hòa bình ngắn ngủi sau khi Hiệp định Pa ri ký kết và giữa hai mùa chiến dịch , một đám cưới ấm cúng được diễn ra . Chú rể là bộ đội lái xe , cô dâu là cán bộ công an tỉnh. Cả hai đều là người Xóm Câu , lại biết nhau từ nhỏ nên hai bên gia đình cũng hiểu nhau nhiều và thông cảm nhau hơn.

Sau đại thắng mùa xuân 1975 anh tôi ở lại trong quân ngũ thêm mấy năm nửa , rồi phục viên chuyển về quê ở Đồng Hới. Tiếp tục lái xe cho công Ty Thương nghiệp , mà thời đó , cả nước vừa thoát ra chiến tranh còn vô vàn khó khăn thách thức , lại thiên tai bảo lụt liên tiếp . Đồng Hới nói riêng và Quảng Bình nói chung còn thiếu thốn mọi bề , ngành thương nghiệp phải gồng mình lo cho dân từ lương thực , thực phẩm thậm chí cả tương cà mắm muối , và cả cây kim sợi chỉ . Chế độ bao cấp vẫn duy trì và tem phiếu vẫn ngự trị trong cuộc sống thường nhật của con người . Mà ngày đó, nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp , nông nghiệp của Quảng Bình chưa ra ngô ra khoai gì cả nên tất cả đều nhờ vào sự năng nổ , tháo vát của mấy ông cán bộ thương nghiệp.Ở đâu có kế hoạch cấp hàng , khi nào Trung ương cho chỉ tiêu là La- đa – Lát lại lên đường . Hà Nội , Hải Phòng hay Huế , Đà Nẵng thậm chí cả Sài Gòn ở đâu có hàng là La- đa- lát có mặt chở cán bộ tiền trạm đến liên hệ xin hoặc mua về phục vụ nhân dân . Có năm Quảng Bình mất mùa do lũ lụt , dân Đồng Hới thiếu gạo , Ủy ban Nhân Dân thị xã còn trưng dụng cả xe và lái vào tận Long An , Tiền Giang mua gạo về cung cấp cho dân. Những ngày đầu ra quân, phục viên của một lính lái xe Trường Sơn năm xưa là vậy đó . Nhưng vượt lên tất cả , hạnh phúc đã mỉm cười khi mọi khó khăn gian khổ lần lượt được vượt qua một cách nhanh chóng , đời sống nhân dân đi vào ổn định và trong cái chung cũng có cái hạnh phúc riêng khi một , hai rồi ba em bé ra đời. Nay chúng đã lớn và trưởng thành ,

Con gái đầu ở nhà gọi là bé , nhưng đi học thì có tên là Hương nên gọi luôn là Bé Hương cho dễ phân biệt với bé con hàng xóm. Nay bé Hương không bé nữa mà đã thành cô giáo Thu Hương, công tác tại Trường Địa Chính Trung ương ở huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai và Bé Hương đã có một bé trai khôi ngô , lém lỉnh. Mới ba tuổi mà phát âm chuẩn ba “ nội ngữ , bằng giọng Bắc – giọng Trung và giọng Nam .

Nó hỏi mẹ nó “ Mẹ Đi mô về rứa” nhưng với bố nó thì “Bố đi đâu đó” . Rủ bạn vào nhà, thì “ Zô chơi zới tớ cho dzui” .hoặc “ Thưa bà con dzề”

Hai thằng sau là Tuấn và Tiến nay cũng sinh sống, làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh và đã ngoài ba mươi cả rồi nhưng xem ra chưa đâu vào đâu cả, vẫn trong tình trạng độc thân, vui vẻ. Được cái là đã tự lo cho cuộc sống bản thân mà không cần viện trợ của cha mẹ nữa . Thành thử anh chị tôi có chờ dài cổ cũng chưa biết khi mô mới lên chức ông nội , bà nội . Mà trước mắt, chỉ mới ông ngoại , mệ ngoại thôi.

Nguyễn thị Doãn Cung là tên khai sinh , là tên đi học còn ở nhà được gọi là Ny, kém anh Dũng một tuổi . Không nói thì cũng biết, cả năm anh em nhưng chỉ có một Thị nên quý lắm. Cũng vì vậy mà trong nhà việc gì cũng có Ny gánh vác , lo toan . Hồi còn nhỏ , Ny ở nhà đi học và phụ giúp việc gia đình rất chu đáo , lại rất có uy trong nhà . Mà cũng đúng thôi vì hồi đó chợ búa , ăn uống gì trong nhà cũng một tay Ny lo , lơ mơ với Ny là không được.

Khoảng năm 1958, chị học trường cấp 1 Đồng Hải ở Khu Đồng Đình , đến 1962 thì chuyển lên cấp hai Đồng Hới ở bên cạnh cầu Mụ Kề , tuổi nhỏ đi học ( cấp 1, 2 ) của chị có rất nhiều bạn bè thân thiết và được nhiều thầy cô quý mến và là thời gian sống trong hòa bình của đất nước , nên tuổi trẻ rất hồn nhiên , trong sáng . Ở Xóm Câu ngày đó Ny có rất nhiều bạn bè cùng trang lứa . Có thể kể qua một vài người trong xóm như Trần Sáo, Trần Hải , rồi Hường (chị Hùng Ngoọng) rồi Cỏn ( Chị Nuôi) rồi Chanh , Hạnh ( chị của Ớt )….hoặc Như , Tương Bình , Lựu, Nga và kể cả Thu Bê nữa . Ngoài ra còn một số bạn bè cùng học nhà ở Bảo Ninh như anh Đoàn Thị, anh Đắc ,anh Thế, anh Thông… mà trong đó có người nay đã thành thiên cổ ,còn lại đến nay tuy đã ngót hơn nữa thế kỷ, tóc đã bạc và lên chức ông bà nội ngoại cả rồi nhưng cứ gặp được nhau là : Mày , Tao , Tao , Mày . cứ như hồi mới 12, 13 tuổi vậy.
Những năm đó , ngoài đi học Ny phải lo chăm sóc các em , chợ búa cho cả nhà . Nhớ nhất là chiều nào Ny cũng ghé chợ, xí chỗ sắp hàng đợi tối khi thuyền đánh cá về mua được vài ba cân cá tươi cho cả nhà.( kho , nấu canh hay chiên rán gì cũng có). Năm 1965 Chị lên lớp 8, vào cấp 3 Quảng Bình cũng là năm chiến tranh phá hoại Miền Bắc của Mỹ . Năm đó , cả Đồng Hới phải sơ tán và cấp 3 Quảng Bình cũng phải sơ tán lên tận xã Vạn Ninh huyện Quảng Ninh. Lúc đó tôi mới vào lớp năm và cũng theo chị sơ tán lên Vạn Ninh để được tiếp tục đi học .Từ lớp năm , ngước lên nhìn các anh , các chị học cấp 3 mà sao cao vời vợi , mà sao xa thăm thẳm.

Đường đi gian lao vất vả , cách sông trở đò nhưng cứ đi sẽ đến , cứ đi sẽ thành quen .Từng tốp , năm bảy người kết thân với nhau hành quân từ Đồng Hới lúc sáng sớm với ruột tượng gạo quấn ngang bụng , tập vỡ , sách giáo khoa kè kè ngang hông . Cứ thế thẳng tiến lên Vạn Xuân . Ai biết và thích đi đường nào cứ đi nhưng phải chọn đường ngắn nhất, ít nguy hiểm nhất để tránh máy bay Mỹ . Nhóm học sinh thị xã cùng lớp với Ny ngày đó có anh Hoàng Trọng Tôn , anh Trần Mạnh Lực , chị Nguyễn Thị Minh Trung , chị Lý , chị Lương thị Bích Liên, chị Dương Thủy , chị Lê thị Bạch Yến….đi đường từ Cầu Dài theo quốc lộ 1A Lên Lương Yến, Văn La rồi theo đường làng đi lên Vĩnh Tuy , qua bến đò Trúc Ly lên Hữu Phan – Trần Xá . Lại qua bến đò Trần Xá mới lên đến Xuân Dục – Hiền Ninh .
Đến được chợ Cột nghĩ ngơi và coi như hơn nữa chặng đường vì không còn con đò nào nữa, xong mới đi tiếp và phải qua Thủ Thừ – Kim Nại (thuộc xã An Ninh) mới đến Vạn Ninh . Nếu tính từ Đồng Hới lên thì có lẽ đây là con đường ngắn và ít nguy hiểm nhất vì tránh cầu phà và các ngã ba ngã tư trọng điểm giao thông . Nhưng cũng có những cung đường phù hợp với nhóm khác, như lên Mỹ Trung – Quảng Xá hoặc theo đường 15, đường sắt củ lên Long Đại . tuy nhiên đường này khá nguy hiểm vì quá vắng vẻ , có khi còn gặp cả thú rừng.

Năm đó, Ny học lớp 8A, ở xóm Bến. Hiệu trưởng là thầy Lê Khánh và các thầy cô như : Cô Xuyến , thầy Hoàng (Văn)…Thầy Lượng , thầy Kỳ (Toán)… Thầy Khả (hóa) Thầy Đóa (Chính Trị) và thầy Hoành, thầy Dũng dạy ngoại ngữ … Thầy Kỷ năm đó mới ra trường, còn trẻ và rất đẹp trai nên được học trò để ý nhiều lắm . Thầy Hoành dạy tiếng Nga là dân Hà nội thứ thiệt , lại đẹp trai , trắng trẻo . Nhà thầy ở phố Nguyễn Thượng Hiền (gần bến xe Kim Liên – mà tôi đã có dịp đến thăm) Ngoài tên các anh chị đã nêu trên còn có chị Việt Nga ,chị Đặng Quỳnh Hoa. anh Nguyễn Đại Thắng .anh Lê Như Trí , anh Hồ Chấn… Đặc biệt còn nhớ, anh Lê văn Chương người Lệ Thủy , làm lớp trưởng. Không biết do làm lớp trưởng phải lo toan cho lớp hay do “ máu xấu” mà tóc anh bạc từ những ngày đó nên được gọi là Chương bạc và đến nay gặp lại anh ấy thì (tóc đâu đâu cũng bạc hết cả rồi ). Lại nhớ ngày đó, ít ai có được chiếc xe đạp để đi vậy mà anh Chương có chiếc xe Thống nhất sườn ngang nên nhiều lần tôi cũng được anh cho quá giang , ngồi trước sườn xe , phía sau là lương thực , sách vở . Mặc dù chiến tranh nhưng học sinh khóa này học rất giỏi (mà chị tôi cũng vào loại giỏi toán).

Lớp này phần lớn là người Đồng Hới , nhiều chị được coi là hoa khôi của trường hoặc của thị xã như chị Minh Trung , chị Bích Liên, chị Việt Nga. Chị Minh Trung sau vào đại học Y Hà nội được nhiều khóa suy tôn là Hoa hậu trường Y. Một số tiệm ảnh ở Hà nội còn lấy ảnh của chị ấy làm mẫu (chứ không phải là quảng cáo như bây giờ) Nay chị ấy đã ngoài 60 lâu rồi nhưng còn …đẹp lão lắm . Chị Lương Thị Bích Liên là người Hoa, bố là chú Mùi (người Đồng Hới thường gọi một cách thân mật) làm nghề nhiếp ảnh. Đã lâu tôi không gặp chị ấy nhưng bù lại Lương Thị Như Hiền và Lương thị Ngọc Hà ( là em chị Liên ) lại là bạn học tại cấp 3 với tôi . Như Hiền , và nhất là với Ngọc Hà tôi có những kỷ niệm đẹp khi tham gia phong trào văn nghệ của trường vào 1971 mà ngày đó Ngọc Hà là một trong những hoa khôi của trường . Chị Việt Nga ở chung một nhà với hai chị em tôi ở xóm Bến , mà cũng may , nhà này có thằng Nghệ bằng tuổi với tôi và cũng đang học lớp 5 nên rất tiện .Chị Nga coi tôi như em ruột. Tuy chưa đến một năm nhưng tình cảm chị em rất thân thiết.Hết cấp 3 chị vào đại học ngoại ngữ, chuyên ngành tiếng Trung và công tác tại Viện Nghiên cứu về Hán Nôm . Nếu chị Minh Trung ,có nét kiều diễm , kiêu sa kiểu Tây phương thì chị Việt Nga có nét dân giã , đằm thắm … theo kiểu Phương Đông hơn .Chị Bạch Yến là con bác Trợ , có xưởng chè Trường Xuân mà mẹ tôi làm , đã nói ở phần trên . Sau này chị ấy vào ngành sư phạm và giảng dạy ở Huế , nay chắc cũng nghỉ hưu rồi. Hồi đi học chị ấy cũng thuộc tốp có tiếng, ấy là : con nhà khá giả , học giỏi , lại xinh gái nên nhiều người trồng cây si.(ai đọc mà chớp chớp mắt thì biết liền) . Nhưng cây si nào si nhất chắc chỉ có “ Giặc ……mới biết”

Từ Đồng Hới sơ tán lên Vạn Ninh, thầy trò ra đi với hai bàn tay trắng, nên điều kiện học tập là hết sức khó khăn. Lớp học là nhà hầm nữa chìm nữa nổi, nằm rải rác trong các khu vườn của nhà dân, giữa các đồi cây um tùm quanh làng . Bàn ghế là những cây gỗ tròn được đẽo và ghép lại, do thầy giáo và học sinh vào rừng chặt mang về. Nhà ở thì cứ 1, 2 hoặc 3 người ở rải rác trong các nhà dân từ thôn Bến , xóm Sỏi ,đến xóm Chùa , xóm Đồn .Ăn uống phải tự túc hoặc góp gạo chung với gia đình rồi ăn chung tùy theo hoàn cảnh điều kiện từng nhà . Thầy giáo soạn bài và học sinh học bài đều dưới những cây đèn dầu , mà ngày đó gọi là đèn Phòng không được chế từ những ống tiêm đã qua sử dụng , ánh sáng được che kín chỉ chừa một lổ nhỏ vừa nhìn đủ trang sách. Loại đèn này ,vừa hạn chế được ánh sáng tỏa ra xung quanh lại tiết kiệm được dầu vì nó cháy bằng hơi dầu chứ không đốt trực tiếp . Trong hoàn cảnh đó , nhưng tình bạn , tình thầy trò cứ như một chất keo kết dính mọi người lại với nhau mà đến nay vẫn nguyên như cũ. Xin chép tặng những người anh , người chị từng là học sinh một thời hoa lữa của cấp 3 Quảng Bình năm ấy , bài thơ của cô Phan Thị Xuyến giáo viên dạy văn ,với tựa :

NHỚ

Một thời đạn bom , một thời đánh Mỹ
Sống động về theo nét bút cài hoa
Quảng Bình ơi! Ngày ấy không nhòa
Nơi đất Mẹ gợi về nổi nhớ
Nhớ thuở cô trò đồng cam cộng khổ
Củ sắn, củ khoai chia ngọt sẽ bùi
Tiếng giảng bài lẫn trong tiếng bom rơi
Thần Sấm , Con Ma xé trời rạch đất
Ba mươi Tết , cả trường đi chiến dịch
Tải đạn về vui Tết cùng dân
Và đêm đêm Võ Xá, Hiền Ninh
Long Đại , Quán Hàu ầm ầm bom dội lửa
Vách hầm rung lên theo từng nhịp thở
Ngọn đèn chao nghiêng
Vẫn ngời lên trang vở
Cho bài học ngày mai
“Súng bắn chưa quen
Quân sự vài bài
Lòng vẫn cười vui Kháng chiến”
Ta đã đi và ta đã đến
Thắng giặc rồi ta xây lại trường ta
Quảng Bình ơi ! Đất Mẹ hiền hòa
Trong lửa đạn Người là sự sống
Trong thương đau , Người ta hy vọng
Khắc đậm tên Người trong sâu thẳm hồn con.

( Xin miễn bình luận, vì mỗi từ, mỗi câu trong bài thơ đều đã lột tả hết tình cảm thân thương của tình thầy trò ngày ấy)

Tháng 11 năm 1965 , hai chị em đang học ở Vạn Xuân thì ba tôi kêu về gấp , mà còn dặn phải đem hết quần áo, sách vở về luôn . Tưởng chuyện gì , ai dè ngày 13 tháng 11 năm đó tôi và chị được đưa ra Bắc , trên chiếc xe Mô- nô của Bộ Thủy lợi vào công tác và do anh Quế (chồng chị Phong ) làm trưởng đoàn .Lái xe là anh Chính , người Hà Bắc. Phụ xe, kiêm hậu cần cũng là cán bộ đo đạc là anh Hợp, người Hà Nội .Trước lúc đi xa , hai chị em lén ba tranh thủ ghé về thăm thị xã, thăm và ngắm lại căn nhà , lúc đó gần như vẫn còn nguyên vẹn .Tôi ghé qua nhìn lại cái giếng Chăm ở nhà thờ họ Phạm, nơi có Ông Dòi , một vị quan còn lại trong triều đình nhà Nguyễn coi sóc và cái giếng nhà O Cân ở cạnh nhà , nơi mà trước đó, trưa hè nào tôi cũng tắm truồng . Nhìn xuống giếng, mấy con cá Tràu vẫn đang bơi lội như không có gì xảy ra, thấy bóng người chúng quẩy mạnh đuôi rồi lặn xuống đáy giếng .Lại xuống bờ sông Nhật Lệ nhìn về phía Bảo Ninh, về phía cữa biển ở Đông Thành , rồi nhìn dãy U- bò xa xa ở đằng Tây, như cố giữ lại những kỷ niệm một thời thơ trẻ .Có mấy chú khuyển mực , khuyển vàng nhà ai không chịu theo chủ đi sơ tán, đang vô tư đùa giỡn ở gần nhà Xâu, thỉnh thoảng lại cắn nhau inh ỏi, thì ra chúng đang tranh giành một bạn tình ,đang nằm vẩy đuôi gần đó. Và điều gì xảy ra …chắc sẽ đến . Đồng Hới thanh bình , mới qua một năm rưởi chiến tranh với cả chục trận oanh tạc,bởi máy bay giặc Mỹ. Dấu vết chiến tranh đã hằn rõ trên thịt da Đồng Hới,bởi những hố bom sâu hoắm , khét lẹt mùi bom đạn nằm rải rác ở khắp nơi từ Cầu Dài ra Đồng Phú. Xung quanh , trên vành miệng một hố bom ở gần chùa Linh Quang , ai đó vừa mới đặt ba bát nhang , ba chén cơm , những nắm nhang cháy dỡ đang nghi ngút khói và những cành hồng trắng , hồng đỏ còn tươi nguyên.

Bất chợt, tôi nhớ nhà thơ Xuân Hoàng và bài thơ viết về Đồng Hới đi vào chiến tranh của Ông: (Trích trong tuyển tập Thời gian và Quãng cách - NXB Văn học 1990)

Em đi , phố nhỏ động cành dừa
Cữa biển về khuya gió đêm ngả lạnh
Phố nhỏ tan rồi qua bao trận đánh
Chúng ta về, ấm lại dải đường xưa

Anh yêu em không phải chỉ riêng em
Bởi lẽ tình ta nhen lên từ phố nhỏ
Phố nhỏ đổ….nhưng lòng ta ở đó
Vẫn ngọt ngào trong nổi nhớ đầu tiên

Phố nhỏ quê ta thức nhiều kỷ niệm
Hương dạ lan thơm ngát những cành dài
Em đi nhé, bóng em lồng bóng biển
Bài thơ lành anh đến ngủ trên vai

Sao thương thế, bài thơ lành phố nhỏ!
Cặp tình nhân nào đó tiễn đưa nhau ?
Thơ phố nhỏ cũng chính lòng ta đó :
Đồng Hới ơi , năm tháng đậm thêm màu!

Ta biết hôm nay Đồng Hới hủy mình
Để có một ngày mai Đồng Hới đẹp
Thành phố ta xây bên bờ biển biếc
Biển Miền Trung xanh ngắt một màu xanh

Ta sẽ về xây Đồng Hới quê ta,
Sẽ lại trồng hoa hồng trên lối cũ.
Hoa Thược Dược đến mùa xuân lại nở
Vàng huân chương trong mỗi sân nhà.

Hỡi em yêu, cây Táo nhỏ bên vườn
Lại sây quả mỗi mùa xuân đến sớm
Mặc lũ con ta ra vườn hái trộm:
Những năm dài chúng vẫn nhớ quê hương!

Và những chiều xanh xao động hàng Dừa
Ta lại về ngồi trên ghế đá
Nhìn những cánh buồm đi trong nắng hạ.
Nhắc lại ngày phố đổ năm xưa

Nhật Lệ quê ta vốn sẵn nhiều buồm,
Mây ngũ sắc ta gửi vào một tấm
Buồm sẽ đi xa, biển mình đẹp lắm.
Đồng Hới mình sẽ đẹp vạn lần hơn.

Thực ra, bài thơ này vào thời điểm đó chưa ra đời mà đến đầu năm 1966 mới được chú Xuân Hoàng viết ra. Khoảng ba tháng sau đó, tôi nhận được thư Ba từ Quảng Bình gửi ra , Ông hỏi thăm sức khỏe , đi đường, rồi ăn ở , học hành ra sao . Rồi Ông khoe: Chú Xuân Hoàng vừa ghé thăm ba ở Phúc Duệ nhân chuyến công tác đến xưởng in đặt in bài cho hội Văn nghệ Quảng Bình và Chú vừa có bài thơ viết về Đồng Hới hay lắm, mà mới viết , chưa đăng. Sẵn có Chú đang ở đây Ba kêu chú đọc, Ba chép gửi cho con luôn . Bài thơ ấy theo tôi suốt những tháng ngày trên đất Bắc. Mỗi lần đi trên đê , nhìn sông Hồng, sông Thái Bình cuồn cuộn Phù sa mà chạnh lòng nhớ về Nhật Lệ , nhớ về Kiến Giang. ( xanh ngắt một màu xanh )mỗi lần đi qua Cầu Long Biên ở Hà Nội, cầu Đuống hay Cầu Bo ở Thái Bình lại nhớ về Cầu Dài, Cầu Ngắn .Mỗi đêm Noel, nhìn dòng người lủ lượt đi lễ nhà Thờ lại nhớ về xóm Đạo Đồng Mỹ và nhà Thờ Tam Tòa nơi Hàn Mặc Tử rữa tội thuỡ thiếu thời (nhập đạo ) và sau đó: ( sao anh không về thăm thôn Vỹ) Mỗi lần qua bến phà Tân Đệ lại nhớ về phà Gianh hay phà Quán Hàu. ,BR> Những đêm không ngủ, nghe tiếng rì rào của ruộng lúa Thái Bình cũng nôn nao nhớ tiếng sóng ầm ào, rào rạt của biển Đông và đôi bờ sông Nhật Lệ. Và hơn thế nữa, bài thơ cũa chú Xuân Hoàng còn như là lời dự báo cho một tương lai gần của Đồng Hới xa, như một cuộc chia ly màu đỏ. Mà ở đó có cả mất mát và hy sinh, có biệt ly và ly tán của những lứa đôi “nhen từ phố nhỏ”… phố nhỏ đổ …nhưng lòng ta ở đó …vẫn ngọt ngào trong nỗi nhớ đầu tiên. Và . “Em đi nhé bóng em lồng bóng biển…..Bài thơ lành anh đến ngủ trên vai”. Chiến tranh là sự thử thách vô cùng to lớn và vĩ đại, là cái giá phải trả vô cùng lớn lao, tuy thơ nhưng Xuân Hoàng đã nhìn được cái sự thật hiển nhiên. Cái mà Xuân Hoàng dự báo là chiến tranh xảy ra thì Đồng Hới hủy mình, Đồng Hới thành chiến trận … (Không để quân thù nghe ta khóc Em ơi , Vết thương hãy thành sẹo mau đi mà đánh Mỹ…. Đã đau rồi đừng đau nữa nghe Em… Ta còn suốt cả cuộc đời ta mà đánh Mỹ). Còn nhớ, cũng vào những ngày ấy sau đó một thời gian , từ Thủ đô Hà Nội - Bác Hồ kêu gọi chống Mỹ cứu nước .
Chiến tranh có thể còn kéo dài 5 năm , 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà- Nội, Hải- Phòng và một số thành phố Xí nghiệp có thể bị tàn phá…. Không có gì quý bằng Độc lập tự do…. Đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn , to đẹp hơn. Từ 1966 đến 1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc, giải phóng Miền Nam , Thống nhất đất nước , non sông Việt Nam liền một dãi . Đất nước ta , Đồng Hới quê ta từ khi “Ta biết hôm nay Đồng Hới hủy mình…Để có một ngày mai Đồng Hới đẹp… Thành phố ta xây trên bờ biển biếc,… Biển Miền Trung xanh ngắt một màu xanh . Rồi “Ta sẽ về xây Đồng Hới quê ta,…. Sẽ lại trồng hoa hồng trên lối cũ….. Hoa thược Dược đến mùa xuân lại nở,…. Vàng huân chương trong mỗi sân nhà” . Mạn phép nhà thơ Xuân Hoàng, người viết bài này xin sữa một từ trong câu cuối của bài thơ (chữ sẽ, thành chữ đã)

Đồng Hới mình đã đẹp vạn lần hơn

Gần 45 năm đã trôi qua , nhưng cứ mỗi lần đọc lại … Bài thơ lành phố nhỏ ….viết về một thị xã nhỏ , của một nhà thơ “nhỏ” mà sao thấy lớn lao vô cùng. Vì nó không còn đơn thuần chỉ là môt bài thơ , mà nó còn là lời dự báo, một sự khẳng định, một bản tình ca , một khúc tráng ca , có đau thương mất mát, có hy sinh và chiến thắng của một nhà thơ Phố biển, của một tâm hồn biển



Ra Hà Nội rồi xuống Thị xã Thái Bình , chị tiếp tục học lớp 8 rồi lớp 9 trường cấp 3 Thái bình, sau đó đi học Trường Trung cấp Thủy lợi và công tác tại nhà máy sữa chữa ôtô thuộc Bộ Thủy lợi.

Nhà máy nằm ở gần thị xã Hà Đông , cũng nhờ vậy chị có điều kiện chăm sóc ba trong hai đợt điều trị tại bệnh viện Việt Đức . Ban ngày chị đi làm , đến chiều đi xe buýt hoặc tàu điện lên với ba. Năm 1972 nhà máy phải sơ tán lên tận Hà Bắc, chị xin ở lại Hà Nội để lo cho ba . Cho đến những ngày cuối cùng của ba trên giường bệnh cũng một mình chị chăm sóc cùng một số bạn bè trong cơ quan giúp đỡ , có thể kể tên các anh như : anh Toại , anh Hiếu…..hoặc anh Lâm Duy Kế người Đồng Hới, năm đó anh Kế vừa tốt nghiệp đại học Y chuẩn bị tiếp bước con đường của bác sĩ Đặng Thùy Trâm đi B, thì Hà Nội bị đánh phá ác liệt nên cả đoàn phải ở lại phục vụ cho Hà Nội. Gặp phải lúc ba tôi bệnh nặng nên anh giúp luôn. Ba ngày sau khi Ba mất tôi mới từ Vĩnh Phúc về và có gặp , ngủ với anh một đêm tại 17 Hàng Chĩnh để ngày mai tôi trở lại trường , còn anh vào bệnh viện Bạch Mai làm việc .Nhưng ba ngày sau đó, B52 ném bom Khâm Thiên , Bệnh viện Bạch Mai cũng bị B52. Nhà đổ , hầm sập , bệnh nhân chết vì bom . Bác sĩ cũng chết vì bom mà trong đó có cả bác sĩ Lâm Duy Kế . Thật tiếc cho anh , một bác sĩ trẻ , tương lai đang chờ đón đã phải ra đi ở tuổi 26. Cũng cần nói thêm, những ngày đó tôi cũng mới nhập học nhưng phải tập trung ở Trường Cán Bộ An ninh Miền Nam tận Vĩnh Phú dưới chân núi Tam Đảo, lúc đó Trường mới thành lập và mang mật danh là E1171, nghĩa là thành lập tháng 11 năm 1971. Do đó ,trường là một trong những địa điểm được bảo mật nghiêm ngặt , mọi thư từ hay liên lạc đều phải qua trung gian ở Hà Nội.

Năm 1973 ,hiệp định Pa ri được ký , Mỹ cút khỏi Việt Nam và Miền Bắc hết chiến tranh. Việc quan trọng nhất của gia đình là phải đưa hài cốt của Ba về quê cha đất tổ. Nhưng đây lại là một bài toán nan giải cho gia đình vì ngày đó, anh Dũng vẫn còn trong quân ngũ . tôi mới nhập học không có điều kiện và khả năng làm được việc đó. Cường và Bảo còn nhỏ và còn phãi đi học . Trong khi Mẹ thì buồn vô hạn vì những ngày Ba nằm trên giường bệnh cho đến khi mất Mẹ không được chăm sóc thậm chí khi Ông Mất rồi bà cũng không có điều kiện ra Hà Nội để thắp lên mộ phần cho Ông một nén nhang.

Thế rồi , sau mấy năm chôn cất ba tại Hà Nội , một mình chị lại đứng ra lo liệu mọi bề để đưa cốt ông về quê một cách chu đáo mà đáng ra việc này đâu phải của một mình chị . Ngày đón Ông trở về bà con , cả nhà ai cũng toại nguyện . và khâm phục chị . Người ta nói : Con gái là con người ta , nhưng Con gái như chị cũng đáng tự hào lắm đó ,vì mấy ai làm được vậy. Và đúng như phần trên đã đề cập , cả năm anh em nhưng chỉ có một Thị nên quý lắm, không sai tí nào cả.

Năm 1973 tôi được chuyển từ Vĩnh Phú về Hà Nội và vào học trường đại học ở gần đó . Nên ngày nào cũng qua lại với chị . Đời sinh viên , ai đã từng trải qua mới thấu hiểu bao gian nan vất vả mọi bề ! Nhưng được cái , trường tôi so với các trường khác cũng còn sướng hơn , lại có chị bên cạnh nên tôi cũng có chỗ dựa, cả vật chất lẫn tinh thần.

Nguyễn Doãn Cường là em kế , kém tôi 4 tuổi và học dưới khoảng 3 lớp .Tuổi nhỏ của nó cũng có nhiều kỷ niệm với Đồng Hới cũng như ngôi nhà cũ ở thị xã, nhưng rất tiếc lên 8 tuổi đã phải đi sơ tán và Cường là người duy nhất trong nhà “Một tấc không đi , một ly không rời” khỏi mảnh đất Đồng Hới , mảnh đất Quảng Bình trong suốt chiều dài cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình từ 1965 đến 1973 và những năm tiếp theo sau ngày thống nhất đất nước. Từ 1965 theo cha mẹ sơ tán lên Phúc Duệ rồi Quảng Xá , Rào Nan….hoặc vào tận rừng xanh xa thẳm. Nó chứng kiến bao thăng trầm , gian lao vất vả và bao chiến công của vùng đất lữa Quảng Bình những năm đánh Mỹ. Nó cũng là người trong cuộc và chứng nhân lịch sử chứng kiến bao thăng trầm của xưởng in Quảng Bình , kể cả thời gian sau này khi ba tỉnh nhập thành Bình –Trị -Thiên , xưởng in chuyển vào Huế (ngay trong thành nội ) rồi lại tách vào năm 1989.

Tốt nghiệp cấp 3, Cường có ra Nam định , vào học Trường Giáo viên Dạy nghề , nhưng phải bỏ cuộc vì lý do sức khỏe . Ngày đó , vừa đi ra từ chiến tranh hậu quả của những tháng ngày ngủ rừng , uống nước suối nên bị sốt rét đã ảnh hưởng đến sức khỏe không đủ sức chống chọi với khí hậu lạnh giá ở Miền bắc. Về lại Quảng Bình , Cường vào học trường Trung cấp Sư phạm hệ 10+3. và được giữ lại trường do có ít nhiều năng khiếu Văn – Thể - Mỹ và hoạt động Đoàn Đội . Với những năm tháng lăn lội ở đất quê hương cùng tố chất có phần văn nghệ nên Cường có rất nhiều bạn bè học cùng cấp 3 và trường sư phạm (nam có, nữ cũng nhiều ) Nếu nhắc thì e không hết , mà thú thật người viết bài này cũng đâu biết hết được. Chỉ nêu một số ít nhân vật có vẻ điển hình như: Vui (mít) Nại (Tàu lửa) Hải … Thành , Kỷ , Kha …...rồi Hương (kèn ) Hà (đất)….

Năm 1976 , thành lập tỉnh Bình – Trị - Thiên, Cường lúc đó đang công tác tại Trường Trung cấp Sư phạm Quảng Bình phải vào Huế lập cơ sở mới là trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh . Những tưởng có một ngày nào đó sẽ trở về tỉnh nhà, nhưng đất lành chim đậu , thế là ở lại luôn trong đó cho đến bây giờ. Thấm thoát mới đó mà đã hơn 35 năm rồi đó. Câu chuyện về việc ở lại hay về của số đông những cư dân Quảng Bình ở Huế giai đoạn đó nếu thống kê sẽ là một tiểu thuyết dài nhiều tập mà e không có trang chót, mà trong đó có cả nụ cười và những giọt nước mắt , có cả hạnh phúc và bi thương . Nhưng với Cường , việc ở lại là đương nhiên ,vì nơi đó , mảnh đất đó Nó đã tìm thêm được một nữa của cuộc đời hay đúng hơn là thêm một dấu cộng và cả một dấu nhân trong cuộc đời của nó. Người ta nói:

“Học trò trong Quảng ra thi , Gặp cô gái Huế ra đi không đành’’

Có lẽ trong Quảng ra hay ngoài Quảng vô cũng đều đến Huế và đều phải ra đi không đành thì hà cớ gì người ở đó mà…..không mọc rễ . Thú thật , nếu ở Huế mà không sử dụng tối đa “ cửa sổ tâm hồn” và trái tim không lay động hay xao xuyến thì e bị khùng hay điên điên cũng vậy. Không rõ nó sử dụng cửa sổ tâm hồn và trái tim của nó ở mức độ nào và có chiêu gì độc không mà thấy hiệu quả lắm, khi mà giờ đây ! Mẹ hai đứa con của nó lại là một cô giáo , hình như lai lai bởi cái dịu dàng , mềm mại , một điều dạ chín Điều thưa của con gái xứ Huế . Lại khéo tay, hay làm , nữ công gia chánh, chiên xào nấu nướng , cái gì cũng tươm tất , chu đáo mọi bề. Với lại vóc dáng khỏe khoắn , mạnh mẽ của của con gái xứ kinh kỳ. Mà, đã là con gái Huế thì (không biết có đúng không) lãng mạn và mơ mộng lắm, lại học văn và dạy văn nữa . Với giọng Huế không thôi thì dạy văn đã hay lắm rối ấy vậy mà nó còn lai giọng Bắc vùng Thanh Hóa nghe như rót mật vào tai vậy . Dạy văn kiểu đó học trò nào chẳng khoái .

Cường với cô giáo dạy văn vừa nói ở trên hiện đang ở khu ( tạm gọi theo tên cũ) là Trường Bia thuộc thành phố Huế cùng hai con -Một gái , một trai, nay cũng đã trưởng thành và khôn lớn.

Nhớ lại , lúc còn nhỏ cô con gái đầu trong nhà gọi tên là Zenđa .và tôi cũng chỉ biết tên cháu là Zenđa mà không rõ nguồn gốc hay ý nghĩa của cái tên đó là sao. Thắc mắc mà không dám hỏi vì nghe hơi ngồ ngộ cứ như tên của một nhân vật nào đó nổi tiếng ở tận Châu Phi da màu. Rồi có nghe ai đó cắt nghĩa, hồi mới đẻ nước da cháu hơi bị đen (da đen) nên hai nhà giáo dạy văn ( chơi chữ ) gọi luôn tên cháu là Zen- đa , kể cũng oan vì nay cháu đâu có đen gì đâu . Chỉ nâu nâu bánh mật, mà con gái nâu nâu bánh mật là quí và hiếm lắm đó. Có lần , hỏi nó : My tên chi ?

Dạ !Cháu tên Chi. Lại hỏi : Rứa My tên chi ? Lại trả lời : dạ tên Chi. Tôi há hốc mồm tỏ ra ngạc nhiên , hỏi tiếp : Chi là chi. Lúc đó nó mới thong thả trả lời : Cháu là Phương Chi. Thì ra tên đầy đủ của cháu là Nguyễn Thị Phương Chi , cái tên nghe cũng nữ tính và dễ thương lắm chứ.

Cũng như Phương Chi , thằng em nó lúc nhỏ trong nhà hai nhà giáo dạy văn kêu tên là Bờm .Mà nói đến Bờm, thì có lẽ ai có chút kiến thức văn học (văn học dân gian) cũng đều liên tưởng đến chuyện “Thằng Bờm có cái quạt mo ‘’ Không hiểu sao mà gọi nó là Bờm , hay do bệnh nghề nghiệp của ai đó có liên quan đến văn chương , đem luôn nhân vật trong văn học vào cuộc sống gia đình cho thêm phần thi vị. Nay Bờm đã lớn và đẹp trai lắm rồi và chỉ còn được gọi Bờm trong nhà thôi, chứ ra ngoài không ai gọi Bờm nữa đâu . Thay vào đó là Quang , tên đầy đủ là Nguyễn Doãn Quang . Có người yêu rồi đừng kêu Bờm nữa phải không Quang.

Vợ Cường có tên trùng một loài hoa , và không hiểu Cường yêu hoa từ lúc nào mà trong khuôn viên nhà, tuy không rộng , nó vẫn dành một diện tích vừa phải nhưng đẹp để trồng hoa và để ngắm hoa. Có điều là nó chỉ trồng một loại hoa duy nhất, ấy là hoa Phong Lan, do nó sưu tầm , mua hoặc do bạn bè tặng mà tuyệt nhiên không có một loài hoa nào được xen vào. Kể cũng lạ !Nhưng cũng không sao cả vì bây giờ Lan là hạnh phúc của nó, là niềm hãnh diện của nó . Phong Lan chỉ làm đẹp thêm Lan trong nhà nó mà thôi. Lan là con gái xứ Huế , được sinh ra ở Thanh Hóa do ông cụ là cán bộ Miền Nam tập kết sau Hiệp định Giơ ne vơ 1954, rồi bén duyên mọc rễ với đất xứ Thanh cho đến ngày đất nước thống nhất mớidắt díu nhau trở về cố đô Huế .

Nguyễn Doãn Bảo là con út trong nhà, nó sinh năm 1960 tại nhà thương Đồng Hới . Sở dĩ nó mang tên Bảo vì ngày sinh nó thì bão lớn ập đến , vừa sinh xong phải di tản ra khỏi nhà thương tìm nơi ẩn nấp cho an toàn , có lẽ vì thế mà ba mẹ đặt tên cho nó là Bảo và mong muốn nó luôn vững vàng trong mọi phong ba bão táp của cuộc sống . Do còn nhỏ nên hình bóng căn nhà và những con đường , ngõ xóm ở Đồng Hới đối với nó, nếu có cũng chỉ nghe kể lại . Ngày chiến tranh xảy ra , nó mới bốn tuổi và đi sơ tán trên đôi quang gánh của Mẹ.
Cũng như Cường , Bảo bám trụ với xưởng in với Quảng Bình trong suốt những năm tháng đánh Mỹ và phải chịu đựng bao gian nan , khổ cực, hứng chịu bao đạn bom nơi đất lửa Quảng Bình .Lớn lên đi học , rồi đi làm tại Công ty đường dây và trạm Quảng Bình . Năm 1981 , được đi hợp tác lao động tại Tiệp Khắc , hết hạn (4 năm ) về lại Quảng Bình . Cũng như nhiều công nhân khác , khi trở về việc sắp xếp bố trí công việc cực kỳ khó khăn , một phần do cơ chế chính sách của nhà nước và tay nghề đào tạo ở nước ngoài không phù hợp với đặc điểm trong nước . Do vậy Bảo vào thành phố Hồ Chí Minh làm việc . Trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, trải qua nhiều công việc khác nhau, nay nó cũng đã có một công việc ổn định và một gia đình hạnh phúc “ Nhìn lên chẳng bằng người ta , nhưng nhìn xuống có người vẫn không bằng mình”. Bảo Ngọc là con gái đầu của nó , nay đã lớn nhưng đi học xa .Thỉnh thoảng Mail về thăm nhưng Bảo chỉ ọ ẹ mấy từ cơ bản ( Yes , No, Okey) . Ở nhà chỉ còn hai vợ chồng son . Vợ là Tuyết công nhân viên - còn nó làm nghề lái xe suốt ngày vi vu trên mọi nẻo đường .Căn nhà nhỏ của Bảo ở vùng phụ cận Sài Gòn , nay thuộc quận Bình Tân. Tuy nhỏ nhưng cũng đầy đủ tiện nghi cho cuộc sống gia đình, có cả sân trồng được vài ba cây ăn trái nên mát mẻ vô cùng , chỉ tiếc khu vực này, việc qui hoặch đô thị còn “ rùa bò quá ” . Phải vài ba năm nữa , may ra mới thành phố xá ! Nhưng, Thời buổi này , cuộc sống được như vậy kể cũng ổn lắm rồi.

Nguyễn Doãn Mạnh là tôi , sinh 1952 (nhâm thìn) ấy là tính theo Dương lịch , Âm lịch thì vẫn còn là năm Mão. Có điều , sau khi ra đời thì đã phải hứng chịu trận lụt lịch sử năm đó . Cả Thị xã chìm ngập trong nước , có nơi cao đến nửa mét , cả nhà phải sinh hoạt trên những bộ phản và đồ đạc trong nhà phải chất lên tra.( Rầm ). Trong nhà , tôi thứ ba em của Dũng và Cung , anh của Cường và Bảo . Tuổi nhỏ của tôi đầy ắp những kỷ niệm với quê hương , với gia đình, với căn nhà , những con đường , những hè phố , những gốc cây , những giếng nước …. Của Xóm Câu và của Đồng Hới. Mặc dù đã lâu lắm và xa lắm rồi nhưng khung trời nơi ấy, mỗi khi nhớ lại nó cứ hiện lên mồn một trong tâm trí của mình, như mới ngày nào vậy.

Học vỡ lòng , học cấp 1 ở Đồng Hới rồi chiến tranh, năm 1965 sơ tán ra Hà Nội , Thái Bình học cấp 2 , 3 . Năm 1969 trở về học cấp 3 Đồng Hới . Năm 1972 lại ra Hà Nội học Đại học . Năm 1978 tốt nghiệp đại học được điều động vào Sài gòn công tác cho đến nay. Thấm thoát mới đó mà đã 35 năm sống và công tác ở – Thành phố Hồ Chí Minh và gần 40 năm đi về thăm Đồng Hới . Khoảng thời gian ấy so với vòng quay của vũ trụ và chiều dài lịch sử thì không thấm vào đâu nhưng với cuộc sống một con người thì đâu phải ngắn , chí ít cũng hai phần ba cuộc đời rồi . Mà trong khoảng thời gian ấy đã có bao nhiêu sự kiện , bao nhiêu kỷ niệm của cuộc đời, bao nhiêu niềm vui , nổi buồn và cả những mối tình chợt đến rồi chợt đi cũng như hạnh phúc khi tìm được một nữa quả cam ngọt lịm của cuộc đời và những dấu cộng dấu nhân đã đến . Nhớ để ghi lại chắc cũng nên lắm …do vậy xin tạm dừng …. Để cố gắng….. ghi lại vậy .

Thay lời kết : Khi bài viết này đang đi vào trang cuối , thì tôi nhận được điện thoại của Cường từ Huế gọi vào và cho biết: Dịp về Quảng Bình giỗ 100 ngày của Mẹ xong , Cường và phu nhân đã làm một chuyến hành hương bằng xe máy lên thăm một số nơi trước đây gia đình sơ tán trong những ngày đầu chiến tranh .
Mà địa điểm đầu tiên là Làng Phúc Duệ , xã Vĩnh Ninh , huyện Quảng Ninh . Nó cho biết, Phúc Duệ xưa vẫn vậy nhưng đàng hoàng to đẹp hơn nhiều, nhà cữa khang trang hơn , đường sá rộng rãi hơn lại rãi nhựa hoặc bê tông rất chắc chắn và sạch sẽ, Điện lưới quốc gia vào tận mỗi nhà. Con đường sắt cũ của Pháp năm xưa chạy ngang Phúc Duệ , nơi ngày đó anh em mình hay đi hái sim , hái dâu và cưỡi lưng trâu nay là đường tàu Thống nhất Bắc – Nam , con đường 15 đất đỏ bụi mù mịt khi xưa nay là đường Hồ Chí Minh chạy qua Phúc Duệ. Nó nhắc tên một số người trong làng nhưng thú thực tôi cũng không thể nhớ nỗi vì lâu quá rồi.Có điều những người già trong làng tuy lúc nhớ lúc quên, nhưng khi nhắc, đều nhớ như in những năm tháng chia ngọt sẽ bùi, củ khoai , củ sắn chia đôi với bà con Đồng Hới , với cán bộ công nhân viên Xưởng in Quảng Bình trong những ngày cam go của chiến tranh.Lại còn có người nhắc đến thằng Mạnh, một mình dám điều khiển máy in bị bàn chân máy quẹt vào chân, đau lắm mà không khóc. Cường cho biết : từ Đồng Hới đi lên đó, bằng Đường Hồ Chí Minh vừa đi vừa ngắm cảnh chỉ hơn một tiếng. Và Phúc Duệ tuy có nhiều đổi thay nhưng tình cảm con người thì vẫn không thay đổi.

Tôi định kết thúc bài viết này ở đây , nhưng một anh bạn đồng Hương Xóm Câu đọc xong vẫn chưa ưng ý . và cho là chưa đủ . Thì ra anh ta gợi ý phải viết thêm về gia đình O tôi là bà Trợ Luân cùng gia đình anh Vân , gia đình chị Phong ở Hà Nội , rồi gia đình nhà chú Trang nữa. Thú thật,gợi ý trên là rất hợp lý và cũng đã có trong dự kiến, nhưng từ… từ đã , chờ phản ứng của người đọc cho chắc ăn. Để nếu được tôi sẽ cố gắng viết không những chỉ trong gia đình họ hàng mà cả bà con láng giềng, nơi ấy: Quê Hương.


Thành phố Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 năm 2010
Nguyễn Doãn Mạnh  

Đăng nhận xét

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét