28/8/15

NHỚ THẦY HOÀNG TRỌNG ĐOÁ - HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG CẤP 3 ĐỒNG HỚI- QUẢNG BÌNH

NHỚ THẦY HIỆU TRƯỞNG HOÀNG TRỌNG ĐOÁ- TRƯỜNG CẤP 3 ĐỒNG HỚI TỈNH QUẢNG BÌNH NGƯỜI ĐI QUA TỘT CÙNG NỔI ĐAU CỦA CHIẾN TRANH.


Trường trung học phổ thông Đồng Hới tỉnh Quảng Bình mà tiền thân là trường cấp 3 Đồng Hới được thành lập từ năm 1966 trên cơ sở chia tách từ trường cấp 3 Quảng Bình, cũng từ đó tên tuổi thầy hiệu trưởng Hoàng Trọng Đoá gắn liền với nhà trường , gắn liền với nhiều thế hệ học sinh con em Đồng Hới từ những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất. Nhưng ít người biết Thầy là Người đã đi qua tột cùng nổi đau của chiến tranh, nổi đau của mất mát.
Tôi không phải là lứa học sinh đầu tiên của cấp 3 Đồng Hới, mà đến năm 1969  mới trở về từ nơi sơ tán, theo học từ lớp 9, nhưng với Thầy , tôi biết sớm hơn. Từ ngày thầy còn là giáo viện dạy bộ môn chính trị của cấp 3 Quảng Bình , vào thời điểm  cấp 3 Quảng Bình sơ tán lên Vạn Xuân.
Ngày đó tôi lẽo đẽo theo các anh các chị lớp 8 cuốc bộ lên Vạn Xuân theo đường số 1, đến Văn la- Lương yến  thì gặp thầy cũng  "tay xách nách mang" rồi nhập đoàn cùng hành quân. Có thầy cùng đi ai cũng an tâm , vững dạ vì thầy thông thạo đường ngang ngõ tắt. Bến đò Trúc ly này đó còn chứng kiến cảnh thầy và trò đợi đò qua sông trong những đêm trăng sáng và  "sáng trưng pháo sáng"Dưới luỹ tre làng dọc triền sông Quán Hàu- Long Đại, thầy Lương Duy Cán cần mẫn đọc thơ , bình văn cho học sinh nghe thì Thầy Hoàng Trọng Đoá đi lại quan sát, nghe ngóng. Thầy quan sát bến sông , con đò, thầy nghe ngóng tiếng máy bay từ xa để kịp thời thông báo cho mọi người vào nơi ẩn nấp. Khi xuống đò, thầy sắp xếp cho mọi người lên hết trên đò rồi gò lưng cùng đẩy con đò rời bến. Bến đò Trúc Ly, bến đò Trần Xá, bến đò Long Đại  cũng cùng chứng kiến nhiều và rất nhiều lần như thế. Ở Vạn Xuân là giáo viên dạy chính trị , ban ngày thầy lên lớp giảng bài, tối thầy đi đến các thôn xóm có học sinh ở trọ để cùng vui với niềm vui của học trò và cùng chia sẽ nỗi buồn nhớ quê, nhớ gia đình, nhớ cha mẹ , anh em của học sinh xa xứ sống trên đất khách quê người qua đó thầy tìm hiểu tâm tư nguyện vọng hòan cảnh khó khăn của từng học sinh. Thầy sớm phát hiện những học học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có ý định xa trường xa lớp , trở về với gia đình rồi tìm cách khắc phục tìm cách tháo gỡ khó khăn. Nhiều học sinh vượt qua được khó khăn, tiếp tục học tập cho đến khi thành người và thành đạt vẫn không bao giờ quên công lao đó của thầy.
  Trận ném bom vào xóm Cồn Chùa và có quả rơi đúng vào văn phòng trường xảy ra vào đêm mồng 5 tháng 1 năm 1967 , thầy và một số giáo viên độc thân không hề hấn gì cũng là một duyên may vì ngay ngày đó thầy Đoá và các thầy còn độc thân phải tạm lánh đi nơi khác do cái hầm chữ A chưa làm xong, phía trên chỉ lát cây ( rào) và mới đổ một lớp đất mỏng. Nếu không đêm đó thầy và nhiều thầy khác thường ngũ tại Văn phòng e khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần ( à mà là đạn bom ) Trận bom đó đi qua, chính các thầy Hoàng Trọng Đoá, Đoàn Viết Trình, , Trần Trọng Kỷ, Lương Duy Cán cùng dân quân xóm Cồn Chùa tham gia đào bới cứu nạn . Chính tay các thầy gom nhặt từng phần thân thể các học sinh thân yêu của mình.
Sau trận bom ấy một thời gian, đoàn nhà nhà văn Bungari - bà Blaga Đimitrôva  được nhà thơ Xuân Hoàng đưa đến thăm trường, buổi tiếp diễn ra ngay tại văn phòng nhà trường còn khá sơ sài ngay tại vị trí củ. Thầy Lương Duy Cán vừa chủ nhà kiêm luôn phiên dịch bằng tiếng Pháp chỉ tay về phía thầy Đoá và giới thiệu : Đây là Ngài Hiệu trưởng Hoàng Trọng Đoá năm nay 43 tuổi, người vừa cùng một số giáo viên nhà trường chúng tôi vừa thoát chết trong gang tấc , bởi bom Mỹ ngay tại vị trí này. . Bà trưởng đoàn cùng các thành viên chỉ biết há hốc miệng rồi đưa tay làm dấu "Lạy Chúa" Buổi thăm viếng càng trở nên thân mật hơn ,vượt qua cả thông lệ ngoại giao  khi cả chủ ( gồm Xuân Hoàng- Hoàng Trọng Đoá - Lương duy Cán) và khách đều dùng tiếng Pháp.
 


THẦY HOÀNG TRỌNG ĐOÁ VÀ TỘT CÙNG CỦA NỔI ĐAU.


Làng Văn La- Lương yến thuộc xã Lương Ninh là quê hương của thầy , làng  cũng yên ả, thanh bình  như bao làng quê Việt nam khác. Đường quốc lộ 1 ngăn làng với sông , con sông Nhật Lệ từ bến phà Quán Hàu , xuôi về Đồng Hới ra biển. Làng và sông, sông và làng song hành đẹp như một bức tranh. Nơi đó có vợ và các con thầy sinh sống. Còn thầy quanh năm bám trường , bám lớp cùng với đám học trò Đồng Hới. Sáu tháng sau khi Mỹ ném bom Cồn Chùa mà thầy thoát nạn . Vào đêm 21/7 cùng năm , tức 26/8 (âm 1967). Một loạt bom Mỹ dội xuống làng Văn la, một quả rơi trúng 2/3  căn hầm chữ A. Nơi đó có vợ và 5 người  con ( 2 trai 3 gái ) của Thầy trú ẩn, đứa lớn nhất mới 12 tuổi và nhỏ dần đến bé út còn ẵm ngữa. Đứa lớn 12 tuổi nằm ngoài cùng, bị thương ở ngực chỉ nghe tiếng gọi yếu ớt của mẹ rồi cũng bị ngất lịm, không biết gì nữa. Khi lực lượng dân quân du kích đến cứu, thì 4 đứa nhỏ đã mất. Vợ của thầy bị vùi sâu trong đất, khi đưa được lên khỏi mặt đấtt tuy còn sống nhưng mọi cố gắng cứu chữa đều vô vọng. Như vậy cả thảy vợ và 4 người con của thầy đều  mất tại căn hầm chữ A đó, duy nhất sống sót là người con trai lớn, được đưa vào địa đạo Văn la, cùng với nhiều nạn nhân khác để cứu chữa . Nhận được tin dữ , thầy tức tốc về và khi đối mặt với sự thật thầy đã ngất lịm đi nhiều lần trong đau đớn. Tìm gặp được người con trai còn sống, khi đang khiêng võng đưa lên thị xã khám vết thương , tưởng con đã mất, thầy lại ngất lịm đi lần nữa.
Chôn cất vợ và các con xong xuôi, Ông trở về trường tiếp tục công tác,  quãng đời còn lại đầy đau thương và cô đơn được  ông giấu kỷ trong lòng, ít tâm sự cùng ai.
Người con trai cả sau khi điều trị vết thương tương đối lành, cháu ruột thầy là anh Lê bá Thoanh đến đón và nói đưa về thăm nhà nhưng được chở bằng xe đạp đến thẳng ven sườn đồi cuối làng. Khi nhìn thấy 5 nấm mồ còn mới , mới biết đó là mộ của Mẹ và 4 người em của mình ...mà chẳng nói nên lời. Ở với chị ruột của thẩy một thời gian sau đó thầy đưa anh cùng vào ở với thầy tại  Cồn Chùa và đi học ở Trạng, sau đó đi K8 tại Thanh Hoá.
Có nổi đau nào lớn hơn ! Và đây chính là tột cùng của nổi đau.

THAY CHO LỜI KẾT:

Người ta thường nói :  "Đằng sau sự thành công của người đàn ông bao giờ cũng có bóng hình  và sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ" Điều này có thể đúng cho nhiều người, trong nhiều hoàn cảnh nhưng với thầy e chưa đúng, bởi với tư cách người vợ bà đã bỏ thầy mà ra đi khi ông mới ngoài 40 tuổi . Với tư cách người mẹ, bà ra đi, để lại  người con trai duy nhất khi mới 12 tuổi.Nếu còn , thầy cũng ngót nghét gần 90 và người con trai của ông bà nay cũng đã bước sang tuổi Lục tuần.
Người viết xin nhường lời cho Người con trai của thầy nói về mẹ của mình trong mùa Vu lan Ất Mùi 2015 như sau:

  "MÓN NỢ ĐỜI TÔI KHÔNG BAO GIỜ TRẢ ĐƯỢC VỚI MẠ
Năm ấy, quê tôi chìm trong bom đạn chiến tranh, mọi thứ về vật chất cái gì cũng thiếu. Dù là con cả trong nhà gồm năm anh em, tôi cũng chỉ ngoài mươi tuổi. Ba công tác ở xa nên việc nhà một tay Mạ lo toan vẹn toàn.
Vào một ngày hè, tôi xin Mạ được theo mấy anh lớn tuổi hơn ở trong xóm vào rừng lấy củi. Mạ nói: “chuyện củi đuốc Mạ đâu để thiếu, con còn nhỏ, chưa đi củi bao giờ, đường lại xa. Thôi, để vài năm nữa”. Tôi vẫn nằn nì xin đi cho bằng được. Cuối cùng, Mạ nở một nụ cười “tinh quái” (lúc ấy tôi nghĩ thế) nói: “Mạ mà không đi guốc trong bụng anh ấy à !”
Sáng sớm hôm sau, khi tôi còn ngái ngủ, Mạ đã gọi: “Thế anh cả không đi củi nữa à ?” Tôi vùng dậy đã thấy tất cả được chuẩn bị sẵn sàng: cái đòn xóc, cây rạ, bi đông nước và nhất là mo cơm nắm. Cái mà tôi vồ lấy đầu tiên chính là mo cơm nắm ấy. Mạ cười, mắng yêu: “Cha tổ anh !”. Bây giờ thì tôi đã hiểu nụ cười “tinh quái’ của Mạ hôm qua. Bà biết tỏng tôi nằng nặc đòi đi củi cho bằng được cũng chỉ vì cái mo cơm ấy. Ở nhà thì làm gì có cơm không độn sắn, khoai, lại còn một mo to tướng nữa !
Cũng vì không biết lượng sức, tôi tham, nhờ các anh bó to, cao, nên khi gánh vừa nặng, đau vai, bó củi chạm đất ở những đoạn dốc. Thật dở khóc dở cười !
Chiều xuống, trời đã nhá nhem, tôi mới ra khỏi cửa rừng, sau khi đã làm khổ mấy anh cùng đi. Tôi quyết định bảo mấy anh về trước, còn mình sẽ về sau.
Thế rồi, ở một chặng, trong khi ngồi nghỉ bên bụi cây, tôi nghe tiếng gọi tên mình. Trời ơi, tiếng gọi của Mạ ! Bất chợt, tôi đạp từng bó củi đổ dúi xuống, còn mình thì chui vô bụi trốn. Đợi Mạ đi qua về phía cửa rừng, tôi lại gánh về phía làng mình. Môi tôi đượm vị mặn, không biết đó là vị mồ hôi hay nước mắt tôi nữa. Lúc đó, nếu đã khóc, có lẽ chỉ vì sự tự ái của tôi (bây giờ các bạn trẻ gọi là “sĩ diện”), tôi đâu có nghĩ được cho Mạ mình vừa mới sinh em bé chưa bao lâu.
Cứ như vậy, từng chặng, từng chặng, cuối cùng tôi cũng về đến nhà. Trên từng chặng ấy Mạ vẫn theo sau tôi. Tôi và Mạ, cả hai đều biết, nhưng cả hai đều coi như không biết !
Không bao lâu sau ngày tôi được Mạ cho đi củi và được Mạ vào tận cửa rừng để “ngừa” ấy, Mạ và bốn em tôi mãi mãi ra đi trong một đêm kinh hoàng bởi bom Mỹ ném trúng hầm.
Ngót nghét năm mươi năm qua, trên từng bước đời mình, tôi biết rất rõ: mọi lúc, mọi nơi, phía sau tôi, Mạ vẫn theo như vậy.
Nhưng tôi không bao giờ nói được với Mạ, dù chỉ mấy tiếng: “CON XIN LỖI MẠ”."

Sài gòn ngày 28/8/ 2015 ( 15-8 âm ngày Vu Lan báo hiếu )

































Đăng nhận xét

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét