“Nhân chứng” Rào Nan
TT
- Trong rất nhiều công trình mang đậm dấu ấn của bí thư tỉnh ủy Nguyễn
Tư Thoan, đập thủy lợi Rào Nan như là một điển hình của tấm lòng lo cho
dân và tầm nhìn, sự quyết đoán của người lãnh đạo. Chúng tôi ngược đường
12 từ ngã ba Ba Đồn rồi rẽ sang 9 xã vùng nam Quảng Trạch.
Hình
ảnh những cánh đồng lúa đang thì con gái trôi qua ngoài cửa xe cứ gợi
trong chúng tôi câu hát: “Nếu ai hỏi vì sao quê hương chúng ta đồng lúa
tốt/có nhớ những ngày cơ cực tối tăm ngày xưa...”.
![]() |
Ông Nguyễn Tư Thoan (giữa) trong một lần đi thăm đồng lúa của dân - Ảnh tư liệu |
Công trình để đời cho dân
Ông
Phan Văn Khuyến - nguyên phó tổng biên tập báo Quảng Bình trong những
năm chiến tranh, dân của làng Thọ Linh, nơi có con đập Rào Nan được xây
dựng - là một nhân chứng của vùng đất này trước và sau khi có đập. Căn
bệnh tim và tuổi già đã khiến ông Khuyến yếu đi nhiều, nhưng khi ngồi
cùng chúng tôi, nhắc lại chuyện xây đập Rào Nan, dường như sự phấn chấn
khiến ông như đang ở giữa công trường đập Rào Nan của hơn 40 năm trước:
Cả
một vùng 9 xã nam Quảng Trạch có 7 vạn dân với 2.000ha ruộng mà cứ mùa
hè là bị bao vây bởi nước mặn từ biển dâng lên. Muốn có nước ngọt tưới
cho đồng ruộng chỉ có cách đắp đập chặn sự xâm nhập của nước mặn rồi bơm
nguồn nước ngọt phía thượng nguồn cho lúa. Nhưng bom đạn như thế sống
đã khó nói chi chuyện đắp đê dựng đập! Vậy mà cuối năm 1967, Tỉnh ủy
Quảng Bình họp và nhận định Quảng Trạch dân đông, đất rộng mà không tự
túc được lương thực chỉ vì thiếu nước là không chấp nhận được.
Quyết
định xây đập Rào Nan, cấp nguồn nước tưới cho hàng ngàn hecta đồng
ruộng Quảng Trạch giữa lúc cuộc kháng chiến đang hồi quyết liệt, không
ít ý kiến bàn ra bàn vào, một lần nữa sự quyết đoán và bản lĩnh của bí
thư Nguyễn Tư Thoan đã thuyết phục được mọi người: “Không thể cứ để
trung ương chi viện mãi được, vũ khí, trang phục không lo được đã đành,
còn lương thực để ăn hằng ngày mà cũng không tự lo được là một nỗi
nhục!”.
Thời
đó cũng có một đoàn chuyên gia của nước bạn Hungary lên khảo sát nhưng
với mục đích để làm đập thủy lợi kiêm thủy điện - ông Phan Văn Khuyến
nhớ lại - Đoàn này chọn vị trí làm đập ở khu vực Đồng Đâu. Nhưng muốn
làm đập thủy lợi kiêm thủy điện phải có luận chứng, có thiết kế khoa học
và phải có thời gian dài mới thi công được. Không thể chờ đợi như thế,
ông Thoan quyết định ngay: Trong khi dân ta đang cần gạo ăn thì phải làm
nhanh làm gọn đập thủy lợi đã, thủy điện làm sau.
Qua
nhiều lần lặn lội xem đất, xem sông, ông Thoan đã nhắm được vị trí tốt
nhất để làm đập thủy lợi Rào Nan. Sau đó ông Thoan triệu tập một hội
nghị cốt cán toàn tỉnh tại nhà hầm của huyện ủy Quảng Trạch, tại hội
nghị này ông trình bày phương án dự kiến về làm đập Rào Nan của tỉnh ủy,
lấy nước tưới cho đồng ruộng vùng nam huyện Quảng Trạch và phục vụ sinh
hoạt cho người dân. Trong hội nghị có người cho rằng muốn làm đập thủy
lợi như thế thì phải mời người ở Bộ Thủy lợi vào khảo sát lưu lượng dòng
chảy, các tầng đất làm nền móng rồi mới thiết kế chứ không làm theo chủ
quan được.
Ông
Phan Văn Khuyến nhớ như in: “Nghe mọi người nói thế, ông Thoan thuyết
phục ngay: ta không còn thời gian nữa. Cuộc kháng chiến chưa biết kéo
dài đến bao lâu, nếu không tìm cách giải quyết lương thực tại chỗ theo
tinh thần của trung ương thì chưa chết vì bom đạn đã phải chết đói rồi”.
Sau
đó ông Thoan quyết định làm đập thủy lợi Rào Nan bằng cách làm rọ thép,
xếp đá vào và đổ xuống để ngăn sông Rào Nan ở đoạn sông hẹp nhất tại
thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn. Cứ năm bảy hôm là ông Thoan lên công trường
một lần (Rào Nan cách Đồng Hới hơn 60km). Trên công trường, ông đã cách
chức tại chỗ ba người do làm việc lơ mơ, chỉ huy không sát thực tế, đơn
vị không đạt tiến độ.
Sau
gần một năm thi công, đến giữa năm 1969 con đập lớn bằng rọ đá dài hơn
110m, cao 6m tính từ đáy sông, chân đập rộng hơn 30m đã hình thành và
vĩnh viễn ngăn ngang dòng nước mặn từ biển thấm lên. Con đập này đã làm
nước sông Rào Nan đoạn phía trên đập dâng cao hơn trước đó 0,3m khi
triều cường lên cao nhất và cao hơn 1,5m khi nước ròng. Nước mặn từ nay
không thể xâm nhập lên thượng nguồn. Có nguồn nước ngọt từ Rào Nan về
đồng ruộng, đất đai khô cằn ngàn đời trước của chín xã vùng Nam huyện
Quảng Trạch là Quảng Sơn, Quảng Hòa, Quảng Thủy, Quảng Trung, Quảng Lộc,
Quảng Tiên, Quảng Văn, Quảng Tân và Quảng Minh từ đó thay đổi hẳn.
Hình
ảnh đọng mãi trong ký ức ông Khuyến là ngày hoàn tất công trình, khi
tám chiếc máy bơm nổ giòn giã đưa dòng nước mát theo kênh mương chảy về
đồng ruộng, những người dân vục tay xuống dòng nước mát mà khóc. Bầy trẻ
con ào xuống kênh, xô đẩy tạt nước reo hò. Có nguồn nước ngọt, cây lúa
thêm vụ, củ khoai thêm mùa, giữa khốc liệt đạn bom chiến tranh, điều đó
như tiếp thêm sức mạnh cho người dân Quảng Bình bền gan với cuộc kháng
chiến.
![]() |
![]() |
Văn bản xin dựng nhà bia tưởng niệm ông Nguyễn Tư Thoan của cán bộ và người dân Quảng Bình - Ảnh: L.Đ.Dục |
Dân xin được lập miếu thờ...
Từ
con đập Rào Nan, hàng loạt công trình thủy lợi khác đã mọc lên trên đất
lửa Quảng Bình giữa những năm tháng mưa bom bão đạn ấy như đập Tiên
Lang, Vực Tròn của Quảng Trạch, đập Vực Nồi của Bố Trạch, đập Mỹ Trung ở
phá Hạc Hải... do ông Thoan khởi xướng và chỉ đạo đã mang lại sức sống
mới cho đồng ruộng Quảng Bình quanh năm khô hạn.
Chính
nhà báo Phan Văn Khuyến cũng đã cảm khái: “Ông Nguyễn Tư Thoan về cuối
đời cũng như ông Kim Ngọc ở Vĩnh Phú, ông ra đi chẳng để lại tài sản
riêng tư đáng giá nào, chỉ để lại trên mảnh đất khô cằn này những công
trình thủy lợi cho dân thoát đói thoát nghèo. Từ đó quê hương Quảng Bình
đi vào công cuộc đổi mới có điều kiện vượt lên, tiến những bước vững
vàng”.
Trên
đường từ Rào Nan về qua xã Quảng Hòa, chúng tôi ghé thăm nhà văn Hoàng
Bình Trọng. Cũng thật ngẫu nhiên, thời chiến tranh ông Trọng làm việc ở
Vĩnh Phú nên hiểu khá rõ về ông bí thư Kim Ngọc, khi ông về quê, những
câu chuyện của bí thư Nguyễn Tư Thoan lại gợi lên trong ông những day
dứt. Bên ấm trà giữa trưa, câu chuyện giữa chúng tôi và nhà văn phải
dừng lại nhiều lần bởi nhắc đến ông Thoan, ông Trọng lại nén tiếng nấc
nghẹn ngào... Và không chỉ nhà văn Hoàng Bình Trọng, có một lớp người đã
vào sinh ra tử, đội bom đội đạn trong chiến tranh cũng day dứt nghẹn
ngào như thế khi nhắc đến công lao của ông Nguyễn Tư Thoan.
Với
niềm biết ơn sâu sắc ấy với bí thư tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan nên hội cán
bộ hưu trí cơ quan Đảng khu vực Nam Quảng Trạch đã có tờ trình xin làm
nhà bia tưởng niệm, ghi nhớ công ơn ông Nguyễn Tư Thoan với chữ ký của
nhiều bậc lão thành cách mạng, trong đó có người như cụ Nguyễn Thanh, 99
tuổi vẫn ghi những nét chữ gân guốc vào đơn đề nghị xây miếu thờ tưởng
nhớ người bí thư tỉnh ủy hết lòng lo cho dân.
Ngôi
miếu thờ ấy, nếu được cấp trên đồng ý, sẽ được người dân Quảng Trạch
góp cát góp đá và dựng ngay đầu nguồn con đập Rào Nan. Nhưng cho dù chưa
xây nên miếu thờ thì trong lòng người dân nơi đây, ông Thoan đã được
lập miếu thờ.
LÊ ĐỨC DỤC - LAM GIANG
- Ông thật xứng đáng được suy tôn!Trả lời nhận xét này
-
Vì lý do KT, những bức ảnh minh họa không tải lên được, xin thông cảm